Kể từ năm 1885, khi Daimler của Đức phát minh và sản xuất chiếc xe máy đầu tiên trên thế giới chạy bằng động cơ xăng, sự phát triển của xe máy đã trải qua những thăng trầm trong hơn 100 năm.
Chiếc xe máy nguyên bản, hình dạng thực tế hiện có trong Bảo tàng Khoa học và Công nghệ Munich, Đức, là chiếc xe máy đầu tiên trên thế giới được Daimler của Đức cấp bằng sáng chế vào ngày 29 tháng 8 năm 1885.
xe máy
xe máy
Được giới hạn trong hơn 100 năm trước, động cơ xăng lúc bấy giờ vẫn còn ở mức thấp và ngây thơ. Vào thời điểm đó, việc sản xuất xe vẫn đang ở giai đoạn công nghệ vận chuyển. Xe máy ban đầu và xe máy hiện đại rất khác nhau về ngoại hình, cấu trúc và hiệu suất. Khung của chiếc xe máy ban đầu bằng gỗ. Đánh giá từ đường vân gỗ, nó được làm bởi những người thợ mộc. Các bánh xe cũng được làm bằng gỗ. Lớp ngoài cùng của bánh xe được bao phủ bởi một lớp sắt. Có một số khung gỗ hình vuông ở dưới cùng và giữa khung, trên đó đặt các động cơ. Bánh xe hỗ trợ nhỏ, chức năng của nó là chống lật khi đứng yên. Vì vậy, chiếc xe thực sự chạm đất bằng cả bốn chân. Động cơ xi-lanh đơn làm mát bằng quạt truyền động bánh sau về phía trước thông qua hộp số giảm tốc hai giai đoạn thông qua dây đai và bánh răng. Yên xe có hình yên ngựa và được bọc một lớp da. Xi lanh động cơ của nó có thể tích làm việc là 264mL và công suất cực đại là 0,37kW (700 vòng/phút), chỉ bằng 1/5 so với một chiếc mô tô đơn giản hiện đại. 12km/h, không nhanh hơn nhiều so với đi bộ. Do thời đó chưa có các thiết bị đệm như lò xo nên chiếc xe này được gọi là "xe sốc xương". Như bạn có thể tưởng tượng, lái xe trên những con đường lát đá của thế kỷ 19 còn khó chịu hơn cả hành quyết. Mặc dù chiếc xe máy ban đầu rất đơn giản, nhưng kể từ đó, chiếc xe máy đã liên tục được thay đổi và cải tiến, và đã có hàng trăm triệu hậu duệ xe máy hiện đại trong hơn 100 năm.
xe máy quân sự
xe máy quân sự
Bổ sung cho xe máy Đức là xe máy Mỹ, trong đó Công ty Harley-Davidson được biết đến trên toàn thế giới. Năm 1903, mẫu xe số 1 thị trường do Công ty Harry của Mỹ sản xuất (xe máy thương mại sớm nhất ở Hoa Kỳ), thể tích xi lanh động cơ làm việc của xe là 409mL, công suất 2,94kW và sử dụng khung xe đạp. Xe máy là sản phẩm của thời đại và là mẫu xe phản ánh trình độ khoa học kỹ thuật lúc bấy giờ. Tức là xe máy ở các giai đoạn khác nhau được gắn nhãn hiệu với sự phát triển của khoa học công nghệ ở các thời điểm khác nhau. Sở dĩ chiếc xe máy nguyên bản không sử dụng được là do khoa học kỹ thuật lúc bấy giờ chưa đáp ứng được những bộ phận cơ bản nhất cần thiết cho việc chạy bình thường của nó nên chỉ có thể đưa nó vào phòng thí nghiệm. Từ những năm 1890 đến đầu thế kỷ 20, những chiếc xe máy đời đầu đã áp dụng những phát minh mới và công nghệ mới vào thời điểm đó, chẳng hạn như lốp cao su khí nén, ổ bi, ly hợp và hộp số, giảm xóc trước, ghế lò xo, v.v. để có giá trị thực tế, được sản xuất hàng loạt trong nhà máy và trở thành hàng hóa. Đây là chiếc xe máy thế hệ thứ hai, được gọi là xe máy của thế hệ hàng hóa. Ví dụ: vào năm 1912, X-8Một chiếc mô tô xi-lanh đơn do Công ty Harley-Davidson của Mỹ sản xuất. Vào thời điểm đó, hệ thống truyền động và truyền lực vẫn chưa được giải quyết, nhưng ròng rọc lớn gắn vào bánh sau được dẫn động bằng dây đai và phanh được phanh bằng cách kéo guốc phanh sau qua tay cầm. Vào thời điểm đó, vấn đề của giảm xóc sau vẫn chưa được giải quyết và giảm xóc trước có giảm xóc kiểu vòng đơn giản được gắn vào phuộc trước.
Sau những năm 1930, với sự tiến bộ không ngừng của khoa học và công nghệ, việc sản xuất xe máy đã áp dụng hệ thống giảm xóc sau, hệ thống đánh lửa cơ học, thiết bị phanh cơ tang trống, truyền động xích, v.v., đưa xe máy lên một tầm cao mới. Bậc thang, xe máy dần trưởng thành, được sử dụng rộng rãi trong vận chuyển, thi đấu và quân sự. Đây là giai đoạn thứ ba của xe máy - giai đoạn trưởng thành. Năm 1936, Công ty Harley của Mỹ đã có thể sản xuất xe máy cao cấp. Xe sử dụng động cơ V-twin 1000mL, OHV, 27.93kW với tốc độ tối đa 150km/h.
Sự phát triển của xe máy cũng giống như từng bước, càng phát triển cao thì càng tiên tiến. Chiếc xe máy nguyên bản năm 1885 được đặt trên mặt đất ở tầng một, và tầng hai là chiếc xe máy đầu tiên được sản xuất trên thế giới, đó là một chiếc xe máy có động cơ bốn xi-lanh đôi ở Đức vào năm 1894, và tổng cộng trong số 1000 đã được sản xuất. Tầng thứ ba là những chiếc mô tô đua phổ biến của những năm 1930, khi những chiếc mô tô đã có những chức năng thiết thực. Tầng thứ tư là một chiếc xe máy sang trọng hiện đại sau những năm 1970. Biểu đồ không chỉ thể hiện bốn giai đoạn phát triển của mô tô mà còn định hình các trang phục khác nhau của người điều khiển phương tiện trong bốn giai đoạn đó.
Kể từ những năm 1970, việc sản xuất xe máy đã áp dụng công nghệ đánh lửa điện tử, khởi động điện, phanh đĩa, bảo vệ thân xe hợp lý, v.v., cũng như công nghệ lọc khí thải và thiết bị chống bó cứng phanh ABS vào những năm 1990, sản xuất xe máy. Nó đã trở thành một phương tiện cơ giới tiên tiến với ngoại hình đẹp, hiệu suất vượt trội, sử dụng thuận tiện, linh hoạt và tốc độ, đồng thời trở thành một trong những biểu tượng quan trọng của nền văn minh trái đất đương đại. Đặc biệt, những chiếc mô tô hạng sang phân khối lớn đã cấy công nghệ tiên tiến của ô tô ngày nay vào xe máy, khiến những chiếc xe máy đạt đến trạng thái hoàn hảo. Sự phát triển của xe máy đã bước sang giai đoạn thứ tư - thời kỳ hoàng kim







